Về câu hỏi thứ nhất (Cuốn sách viết về cái gì?), mọi cuốn sách lịch sử đều chỉ nói đến một chủ đề cụ thể và giới hạn trong khi độc giả thường không bỏ công tìm xem chủ đề đó là gì. Dấu hiệu của phong cách này là khi bạn đọc các tác phẩm của Spinoza, bạn có thể bỏ qua rất nhiều giống như cách bạn đọc tác phẩm của Newton. Đối với sách triết học, bạn cũng nên quan tâm đặc biệt đến các nguyên tắc của các triết gia.
Phần 9 - những điểm hạn chế trong quyền lực của Quốc hội. Còn trong chương kết của cuốn sách On the Motion of the Heart (Vận động của trái tim), nhà sinh lý học William Harvey đã viết: Từ lý luận và thực nghiệm, có thể rút ra kết luận tâm thất co bóp đẩy máu qua phổi và tim rồi truyền đi khắp cơ thể. Sách hư cấu quan trọng không kém vì chúng chạm đến nhu cầu vô thức của mỗi chúng ta.
Vì thế, nếu bạn đã cố gắng đọc các tác phẩm khoa học kinh điển, bạn sẽ không gặp nhiều khó khăn khi đọc các tác phẩm này. Tác giả phải lý luận làm sao để có thể tác động đến cả con tim và khối óc của người đọc. Do đó, điều quan trọng nhất cần đặt biệt chú ý khi đọc bất cứ bản tường thuận sự kiện thời sự nào là: Ai viết bản tường thuật đó? Để hiểu được tâm trí phóng viên thuộc loại bộ lọc nào, chúng ta phải đặt ra một loạt câu hỏi như sau:
Chúng đều là sách chuyên đề. Câu hỏi đặt ra lúc này là liệu Hamlet có tình cở nghe được việc cha chàng và Polonius dự định nghe trộm chàng hay không? Và chàng có nghe thấy Polonius nói rằng ông ta sẽ tạo điều kiện để con gái ông ta kết thân với chàng không? Nếu có thì cuộc đối thoại của Hamlet với Polonius và Ophelia có ý đồ mới; nếu không, thì cuộc đối thoại lại mang nghĩa khác. Với những người bắt đầu đọc đồng chủ đề, Syntopicon càng hỗ trợ đắc lực hơn, nó có thể giúp họ theo ba cách: đưa ra những sáng kiến, gợi ý, hướng dẫn.
Nhưng để làm được điều đó, bạn lại phải học riêng rẽ từng động tác ngay lúc đầu. Do đó, nếu bạn phát hiện ra những chuỗi câu có điểm bắt đầu và điểm kết thúc, có thể bạn đã chạm đến những câu quan trọng. Chúng tôi gọi những câu hỏi về sự tồn tại và những điều xảy ra trên thế giới hay về những điều mà con người nên làm hay nên tìm kiếm là các câu hỏi hạng nhất.
Tuy nhiên, một tác giả phân biệt rõ ràng các nghĩa khác nhau của từ mà mình sử dụng thì chắc chắn tác giả đó đang đưa ra các thuật ngữ. Những bài viết tầm trung, khi cô đọng lại thường là vẫn đủ ý, thậm chí còn hay hơn bản gốc vì những bài viết tầm trung chủ yếu là thông tin. Nếu quy tắc 2 hướng bạn chú ý đến tính chỉnh thể, thì quy tắc 3 lại hướng bạn tới tính phức tạp của cuốn sách.
Ông đã cho xuất bản tất cả những vở kịch của mình, trong đó có ít nhất một vở là Heartbreak House (Ngôi nhà có trái tim tan vỡ) đã được xuất bản trước cả khi được diễn. Tất nhiên, các tác phẩm văn học giả tưởng, từ thơ ca đến truyện và đặc biệt là kịch cũng có nhiều điều để độc giả học hỏi nhưng không giống với cách mà chúng ta học từ sách khoa học và triết học. Nhưng cách đọc này có thể không làm thoả mãn mong muốn của họ về sự kiện và nhân vật.
Điều này giải thích tại sao các tác giả thường thay thế một từ đơn lẻ bằng một cụm từ khá chi tiết khi muốn diễn đạt dễ hiểu. Vì thế, người đọc có trách nhiệm tìm hiểu chính xác xem các khía cạnh liên quan đó là gì. Hơn thế, nó gắn kết giai đoạn đầu của quá trình đọc phân tích (vạch ra cấu trúc sách) và giai đoạn thứ hai (làm sáng tỏ nội dung).
Tính cần thiết đó vẫn giữ nguyên giá trị và khi tóm tắt luận điểm của một tác giả được trình bày, bạn phải dùng chính ngôn từ đó chứ không phải của tác giả. Trước tiên, ta có thể chuyển các quy tắc cấu trúc thành các đồng dạng hư cấu như sau: Tuy nhiên, một tác giả phân biệt rõ ràng các nghĩa khác nhau của từ mà mình sử dụng thì chắc chắn tác giả đó đang đưa ra các thuật ngữ.
Chúng tôi xin viết lại bốn quy tắc đầu tiên theo trật tự, dươi một tiêu đề phù hợp, giúp bạn ôn tập thuận lợi hơn. Nếu câu hỏi mang tính khoa học, bạn biết rằng để trả lời nó bạn phải tiến hành một nghiên cứu hay một thí nghiệm hoặc quan sát một loạt hiện tượng. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu khá sâu về vấn đề này (Chú thích: Kết quả của những nghiên cứu này được xuất bản trong cuốn The Idea of Progress, New York: Praeger, 1967.