Những biện pháp như vậy lúc nào cũng có được những tác động vào đám đông. Dĩ nhiên các đám đông thường có tính tội phạm, nhưng không chỉ có thế, nó cũng thường có cả tính quả cảm. Nhiều người sẽ cảm nhận thấy được ở chúng những sức mạnh tự nhiên hoặc những quyền lực siêu phàm.
Khi những anh hùng trở về với cuộc sống đời thường, họ, trước kia là những người một thời đầy máu lửa, giờ đây lại là những bằng chứng đáng ngạc nhiên của sự yếu đuối. Do tê liệt về tâm trí, người bị thôi miên trở thành kẻ nô lệ của những lực vô thức trong nó, đó là những lực mà nhà thôi miên có thể điều khiển một cách tùy ý. Từ trên đây ta rút ra một điều rõ ràng rằng, những tác phẩm lịch sử nên được coi là sản phẩm của sự hư cấu thuần túy.
Không phải chính phủ, mà tính cách của dân chúng quyết định số phận của họ. Khẩu hiệu hành động là: thanh thản và yên lặng. Nền văn hóa sẽ được cải tạo lại cho đến chừng nào nó tiếp nhận một quan điểm nền tảng chung mới và cho đến lúc đó bất quá là phải chịu sống chung trong sự hỗn loạn.
Lịch sử tội phạm của đám đông sẽ cho ta nhận thấy rõ ràng điều đó. Những người khác sẽ khảo sát lĩnh vực này tốt hơn[2]. Tập hợp thành đám đông dưới tác động của những người cầm đầu, họ không một chút lưỡng lự khi quyết định hành quyết những con người rõ ràng vô tội; bất chấp những thiệt hại cho bản thân, họ vứt bỏ cả quyền bất khả xâm phạm và tiến hành trừ khử những thành viên khác của nghị viện.
Trên thực tế họ có cái bản năng bảo thủ khó hiểu giống như tất cả những người nguyên thủy. Tôi cũng đã quan sát thấy điều đó ở những người có học theo đạo Hindu, đang theo học và làm luận văn tiến sĩ tại các trường đại học ở châu u chúng ta. Cái không có thật trong con mắt họ cũng quan trọng như cái có thật.
Trong nội bộ đám đông, các ý tưởng, tình cảm, những sự kích động, các tín điều được lây lan với một tốc độ nhanh chóng như của các loại vi trùng. Rất nhiều khi lãnh đạo lúc đầu cũng chỉ là kẻ bị lãnh đạo, bản thân nó bị mê hoặc bởi cái ý tưởng mà sau này chính nó sẽ trở thành thánh tông đồ của cái ý tưởng đó. Ngày xưa, và cái ngày xưa này cách đây cũng không lấy gì làm lâu lắm, dư luận quần chúng được định hình bởi các hoạt động của chính phủ, bởi các ảnh hưởng của số ít nhà văn và một số hoàn toàn ít ỏi các tờ báo.
Những công việc lâu dài này, nếu không có chúng các ý tưởng sẽ mãi là vô dụng, đứng bên trên chúng là những động lực trực tiếp. Ngược lại những cái không có thể nhất thường lại hay lộ ra rõ nhất. Sự bắt chước khi đó sẽ trở nên khó khăn và vì vậy ảnh hưởng của nó gần như không có mấy.
Đám đông lúc này đội lốt một tín ngưỡng hoặc một lãnh tụ bách chiến bách thắng, làm cho họ say mê, với cùng một quyền lực huyền bí. Chỉ có những tình cảm vô thức là có thể có tác động trong chúng. Napoleon đã nắm bắt một cách tuyệt diệu tâm hồn đám đông của người Pháp, nhưng ông ta cũng thường hiểu sai tâm hồn của những chủng tộc khác lạ[1].
Ví dụ, ta thử thuyết phục một người nguyên thủy, một người hoang dã hoặc một đứa trẻ con bằng những lập luận lôgic, lúc đó ta sẽ nhận thấy rằng những kiểu cách thuyết phục như vậy mang lại kết quả rất ít như thế nào. Đám đông là một bầy đàn, nếu không có người chăn dắt chúng sẽ chẳng biết làm gì. Các quan điểm thoảng qua dễ dàng bám vào tâm hồn đám đông, nhưng để chúng có thể trở thành một niềm tin vững chắc trong đó là một điều rất khó, và việc xóa bỏ chúng ra khỏi đó cũng khó ở mức độ tương tự, nếu như chúng đã một lần ăn sâu bám chặt.
Hai tính chất đó tìm thấy ở trong tất cả các nhóm người họp lại với nhau khi họ tán dương một niềm tin nào đó. Tuy nhiên ông ta chẳng thu được kết quả nào. Vả lại, do thể tạng của mình, những đám đông ấy cần có một thủ lĩnh, một người cầm đầu, kẻ có thể dẫn dắt họ và cho bản năng của họ một ý nghĩa.